Văn hóa xã hội

THÔN BÁI THƯỢNG, XÃ THANH XUÂN TỔ CHỨC KHÁNH THÀNH NHÀ VĂN HÓA, KHU THỂ THAO THÔN NĂM 2025
Ngày đăng 20/01/2025 | 09:01  | Lượt truy cập: 64

Chiều ngày 20/01/2025 Thôn Bái Thượng tổ chức lễ Khánh thành Nhà văn hóa, khu thể thao của Thôn.

Dự buổi lễ Ông Chu Văn Phương - Phó bí thư Đảng ủy -Chủ tịch UBND xã, Ông Nguyễn Văn Long - Phó bí thư thường trực đảng ủy xã, đại diện các đồng chí trong Ban thường vụ, HĐND, UBND, UBMTTQ xã Thanh Xuân, trưởng các ngành đoàn thể xã, đại diện các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, ban lãnh đạo chi bộ, thôn Bái thượng cùng toàn thể nhân dân trong thôn về dự.

Công trình nhà văn hóa, khu thể thao thôn có từ lâu đời, trải qua thời gian sử dụng công trình xuống cấp chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của nhân dân trong thôn trong hội họp, sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao và các hoạt động khác. Được sự quan tâm của Đảng ủy – UBND xã Thanh Xuân thực hiện mục tiêu về đích nông thôn mới nâng cao toàn xã. UBND xã Thanh Xuân đã đầu tư sửa chữa nâng cấp các hạng mục thuộc nhà văn hóa, khuôn viên và khu thể thao thôn, đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất nhà văn hóa, dụng cụ thể thao ngoài trời. Hiện nay công trình đã xong và bàn giao đưa vào sử dụng rất khang trang, hoành tráng xứng tầm với quy mô của thôn Với tổng nguồn vốn đầu tư hơn 3 tỷ đồng. Công trình đã trở thành khu trung tâm văn hóa, chính trị của thôn đáp ứng được nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân.

Nhân dịp này UBND xã Thanh Xuân tặng giấy khen cho 08 cá nhân trong thôn có thành tích xuất sắc trong xây dựng nông thôn mới nâng cao năm 2024.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHÙA THANH NHÀN
Ngày đăng 09/09/2024 | 02:26  | Lượt truy cập: 78

I. TÊN GỌI:

- Chùa Thanh Nhàn là tên thường gọi theo địa danh thôn.

- Tên chữ là Sóc Sơn tự (chùa Sóc Sơn).

II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH:

1. Địa điểm phân bố:

a. Trước đây:

Xa xưa Thanh Nhàn có tên nôm gọi là Kẻ Khốn, sau đó được đổi là Thanh Nhàn.

Trước Cách mạng Tháng 8, Thanh Nhàn và Thạch Lỗi là xã thuộc tổng Cổ Bái, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên. Sau Cách mạng Tháng 8 thuộc xã Tân Dân, tỉnh Vĩnh Phúc, năm 1952 thuộc xã Minh Tân, từ năm 1954 thuộc xã Thanh Xuân, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên; Năm 1968 tỉnh Phúc Yên đổi tên là Vĩnh Phú, năm 1977 Kim Anh sáp nhập cùng Đa Phúc thành huyện có tên mới là Sóc Sơn. Thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1978 Sóc Sơn nhập về Hà Nội. Từ đó đến nay được giữ nguyên tên và địa vực hành chính.

Xã gồm 8 thôn 2 TDC : thôn Na, Trung, Thanh Nhàn, Chợ Nga, Bái Thượng, Thạch Lỗii, Đồi Bến, Đồng Giá và hai tổ dân cư: khu dân cư phố Kim Anh và khu dân cư phố Thạch Lỗi. Xã có địa giới phía Đông giáp xã Quang Tiến; phía Đông Bắc giáp xã Hiển Ninh; phía Đông Nam giáp xã Phú Cường; phía Tây giấp xã Phúc Thắng (thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Phúc Yên); phía Tây Nam giáp xã Kim Hoa, Quang Minh (huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc); phía Bắc giáp xã Tân Dân.

b. Hiện nay: Chùa Thanh Nhàn thuộc thôn Thanh Nhàn, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

 

 

 

 

 

 

 

Hình ảnh: Di tích Chùa Thanh Nhàn hiện nay

2. Đường đi đến di tích:

Chùa Thanh Nhàn nằm về phía Bắc của Thủ đô, cách trung tâm Hà Nội khoảng 35 km. Quí khách đến thăm di tích có thể đi theo các đường sau:

- Đường qua cầu Chương Dương hay Long Biên qua QL1 rẽ qua cầu Đuống đi QL3 đến ngã ba Phù Lỗ rẽ trái đi khoảng 11km là đến xã Thanh Xuân, đi dọc QL2 qua UBND xã Thanh Xuân 700m là đến chỗ rẽ vào đền, đền cách QL2 khoảng 500m.

- Đường qua cầu Nhật Tân đi qua sân bay Quốc tế Nội Bài, đến ngã tư Võ Văn Kiệt rẽ phải vào QL2 (hướng đi Phúc Yên), đi dọc QL2 qua UBND xã Thanh Xuân 700m là đến chỗ rẽ vào đền, đền cách QL2 khoảng 500m.

- Đường qua cầu Thăng Long đến đến ngã tư Võ Văn Kiệt rồi tiếp tục hành trình như trên.

          Qua cầu Thăng Long đi đến quốc lộ 23 qua thị trấn Phúc Yên đến quốc lộ 2 khoảng 6 km rẽ trái đi khoảng 300m là tới di tích.

Các phương tiện giao thông sử dụng đều tiện lợi để đến di tích. Khoảng cách từ Đền đến sân bay Quốc tế Nội Bài là 4km.

III. SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ.

Thanh Xuân là một xã nằm ở trung tâm huyện ly Kim Anh cũ. Nơi đây tập trung nhiều làng cổ với các di tích lịch sử văn hóa mang đậm ý nghĩa lịch sử và truyền thuyết dân gian. Nổi bật là truyền thuyết về Thánh Gióng ở đền Thanh Nhàn, chuyện kể rằng: Trước đây đất này gọi là hương Thanh Khốn, sau khi Thánh Gióng đi qua nghỉ lại, múc nước uống thấy dân thôn An Bài yên vui, nhà cửa khang trang, vật thịnh, khung cảnh tươi tốt bèn đổi tên cho làng là Thanh Nhàn. Nơi đây còn nhiều địa danh có liên quan đến người anh hùng Gióng như các đỉnh núi; Đá chồng, Vay rồng, Mũi cày, Đá đen, Núi Dõm, Núi Chém tướng... Xung quanh khu vực xã Thanh Xuân và nhất là trên tuyến đường từ xóm chợ Nga đến núi Vệ Linh có rất nhiều dấu tích vết chân ngựa mà dân gian vẫn thường gọi là vết chân ngựa Thánh Gióng.

 

 

 

 

 

 

 

Hình ảnh: Khu vực thờ Tam thế trụ diệu pháp tâm (gọi nôm là ba ông Bụt ốc)

Trải qua bao đời cha ông ta đã chặt rừng lấp trũng, đắp đê ngăn nước, cải tạo đất đai tạo dựng nên xóm làng trù phú. Cùng với  sự hình thành, phát triển của xóm làng, người dân nơi đây đã kiến tạo nên những công trình văn hóa tín ngưỡng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Đó là những ngôi đình, đền, chùa trang nghiêm, cổ kính. Chùa Thanh Nhàn cũng như nhiều ngồi chùa cổ khác ở đồng bằng Bắc Bộ dựng lên không ngoài mục đích làm nơi tôn thờ đạo Phât.

Ngôi chùa chính là một sản phẩm văn hóá, một dấu tích vật chất theo những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Đạo Phật đã giữ vai trò một ý thức hệ cơ bản góp phần tích cực để tập hợp lực lượng người Việt đứng dậy giành độc lập dân tộc ở cuối thời Bắc thuộc. Sau đó tới hàng nghìn năm, đạo Phật văn phát huy tính tích cực của nó, góp phần vào cuộc duy trì bản sắc văn hóa dân tộc. Đạo Phật đi vào quần chúng bình dân một cách mạnh mẽ và hầu như để lại dấn ấn ở khắp nơi bằng những ngôi chùa. Điểm nổi bật của chùa Việt Nam là bao giờ cũng có xu hướng gần dân, ngoài một số chùa được dựng ở những địa điểm thắng cảnh thiên nhiên thì hầu như chùa nào cũng gắn với xóm làng. Tín đồ của đạo Phật chủ yếu là nông dân, nên chùa đã phản ánh đậm nét tư duy nông nghiệp, từ đó ta thấy được chùa là một trung tâm văn hóa của làng và chùa Thanh Nhàn là một trong số đó.

Chùa là nơi thờ Phật, một tôn giáo lớn được du nhập vào nước ta ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Bằng hệ thống giáo lý và tư tưởng luân hồi, giác ngộ, khuyến thiện của đạo Phật, sự hiện diện của ngôi chùa là nơi đem lại sự an lạc về tinh thần cho nhân dẫn địa phương.

Ngoài nội dung chính là thờ Phật, trong chùa còn phối thờ những người có nhiều công đức với di tích. Việc thờ cúng này vốn bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và thể hiện truyền thống nhân bản, truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" rất tốt đẹp của dân tộc ta. Bên cạnh đó trong chùa còn có nhà thờ Mẫu, một loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ được lưu truyền và tồn tại đến nay. Tuy có nguồn gốc và nội dung thờ cúng khác nhau, song các tôn giáo, tín ngưỡng đều nhằm hướng con người đến điều thiện và tin vào một tương lai tốt đẹp.

IV. LOẠI HÌNH DI TÍCH, NIÊN ĐẠI XÂY DỤNG VÀ NHỮNG LẦN TRÙNG TU SỬA CHỮA :

1. Loại hình di tích:

Chùa Thanh Nhàn là di tích văn hóa tôn giáo thờ Phật, đồng thời là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã. Với những giá trị nổi bạt hiện còn của đi tích, có thể xếp chùa Thanh Nhàn vào loại hình di tích Lịch sử, nghệ thuật.

2. Niên đại xây dựng:

Di tích chùa Thanh Nhàn được xây dựng từ khá sớm, trải qua những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, đến nay di tích không còn giữ được những tư liệu ghi rõ năm khởi dựng ngôi chùa. Để có thể xác dịnh niên đại tương đới cho sự có mặt của ngôi chùa, chúng tôi dựa vào các căn cứ sau:

Hiện nay trong chùa còn lưu giữ 4 bia đá trong đó có tấm bia "tu Phật tượng bi ký" niên hiệu Long Đức thứ 2 (1733) và 1 quả chuông đồng có niên hiệu Gia Long 18 (1819).

Như vậy, qua các cứ liệu nói trên, chúng ta có thể nhận định di tích chùa Thanh Nhàn được khởi dựng ít nhất ở đầu thế kỷ XVIII, sau đó được trùng tu sửa chữa nhiều lần vào thế kỷ XIX, XX.

3. Những lần trùng tu sửa chữa:

Theo tấm bia "Kỷ niệm bi ký" niên hiệu Bảo Đại 4 (1929) có nội dung ca ngợi công đức của vị tôn sư người xã Cự Đà, đã tự bỏ tiền của, lại hoạt động lòng thiện của thập phương, đứng ra tu bổ lại chùa, đổi mới tam bảo, từ đường... lại xây dựng lầu chuông, gác cao, quanh cảnh to đẹp, thật xứng đáng được ghi lại trên bia để lưu truyền mãi mãi.

Thời kỳ kháng chiến kiến trúc của chùa đã bị mai một đến đầu thế kỷ XX kiến trúc chính của chùa được trùng tu tôn tạo lại. Năm 2003 lát sân để di tích ngày một ấm cúng khang trang hơn. Năm 2005, nhà Mẫu được trùng tu tôn tạo lại.

Như vậy, chùa Thanh Nhàn được trùng tu từ thời Nguyễn và trải dải những năm gần đây.

V. KHẢO TẢ DI TÍCH:

1. Giới thiệu tổng thể:

Chùa Thanh Nhàn hiện toạ lạc trên một khu đất rộng ở phía bên phải của đền Thanh Nhàn di tích đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1990. Các hạng mục kiến trúc chùa chính được bố trí theo hình chữ đinh gồm tiền đường và thượng điện. Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: Sân chùa, chùa chính, nhà Mẫu và phía sau là khu vườn rộng trồng một số cây ăn quả, tạo cảnh quan và bóng mát.

Qua cổng nghi môn của đền Thanh Nhàn là một lối đi láng xi măng dẫn vào sân của đền và chùa, sân được lát gạch Giếng Đáy kích thước 30x30cm.

* Chùa chính:

Tiền đường: Gồm 4 gian hai chái, mái lợp ngói ta. Phía trước mở 4 cửa gỗ chia đều 4 gian, cửa làm kiểu ván bưng, bậc thềm xây tam cấp lát xi măng. Kết cấu kiến trúc gồm 5 bộ vì gỗ làm theo kiểu “quá giang tiền kẻ hậu bẩy”. Hai bộ vì gian chái làm cân xứng “chồng xà trụ chốn trên xà nách” về hai bên. Mỗi bộ vì được đặt trên hàng cột phía sau và tường hiện phía trước đỡ khung. Nền nhà lát gạch Bát kích thước (20x20) cm.

Thượng điện: Gồm 4 gian dọc nối liền với gian giữa tiền đường tạo thành chữ đinh. Kết cấu với 5 bộ vì theo kiểu “quá giang hạ kẻ” hai bên gối tường, 2 hàng cột cái chính đỡ khung vì. Chính giữa xây bệ cao khoảng 2m với các bậc thấp dần từ trên xuống làm ban thờ, bên trên ốp gạch men hoa, nền nhà lát gạch.

* Nhà Mẫu: kết cấu kiểu chữ định.

Nhà tiền tế 3 gian, mái lợp ngói ta, bờ nóc, bờ dải đắp kiểu bờ định, phía trước mở ba cửa làm kiểu ván bưng, nền nhà lát gạch bát (30x30) cm. Bộ vì đỡ mái gồm có 4 bộ vì làm theo kiểu: “vì kèo quá giang”. Nối với gian giữa nhà tiền tế là hậu cung tạo thành chữ đinh. Hậu cung đổ mái bê tông tạo thành vòm cong.

* Bài trí tượng thờ trên tam bảo:

Cũng như nhiều ngôi chùa cổ khác của làng xã Việt Nam, hệ thống tượng trên tam bảo của chùa Thanh Nhàn được bài trí như sau:

Tại tam bảo: Trên vị trí cao và sâu nhất là bộ tượng Tam Thế có tên đầy đủ "Tam thế thường trụ diệu pháp thân" tượng trưng cho sự tồn tại của nhà Phật trên trục thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai. Ba pho tượng có kích thước và hình dáng giống nhau, không lớn lắm, có những tướng tốt đẹp lộ ra ngoài như: đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc nên dân gian gọi nôm là"ba ông bụt ốc", tai dài, tay dài, mặt tròn mặt nguyệt. Mắt khép hờ nhìn xuống, nhân chung sâu, miệng phảng phất nụ cười. Sống mũi tượng thẳng, hơi dẹt, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XX.

Lớp thứ hai: Ngồi giữa là tượng Di Đà Tam Tôn, ngồi trong tư thế thiền định- một vị Phật có sắc tướng "Biến hiện vô cùng" - “To lớn vô cùng” - vị phật được coi là giáo chủ của thế giới cực lạc ngồi trên tòa sen, hai bàn tay để ngửa trong lòng kết ấn thiền định, mình mặc áo pháp tồn tại vĩnh hằng với ánh sáng Phật pháp từ ngài toả ra để cứu vớt chúng sinh không gì che cản nổi. Cũng như các tượng ADiĐà khác của Phật giáo, tượng ADiĐà chùa Thanh Nhàn được tạo tác khá lớn, có diện mạo bất biến của ADiĐà xưa nay. Đó là kiểu ngồi thuyết pháp hai chân xếp bằng gọi là ngồi kiết già, hai tay để ngửa trong lòng đùi kết ấn thiền định, mình mặc áo pháp. Những quý tướng nói trong kinh Phật bộc lộ rõ ràng: khối u nổi trên đỉnh đầu (nhục kháo), tóc xoắn hình ốc, tai dài, cổ cao ba ngấn, khuôn mặt mang vẻ trầm tư, với đôi mắt nhìn xuống, dọc mũi thẳng, miệng thoáng nụ cười làm cho khuôn mặt rạng rỡ. Hai bên tượng Quan Âm và tượng Thế Trí.

Lớp thứ ba là tượng Quan Âm Chuẩn Đề với ý nghĩa thấu tỏ mọi khổ nạn của chúng sinh cứu độ chúng sinh. Tượng được tạo ngồi trên toà sen, có nhiều tay đặt trong tư thế cao thấp khác nhau, được lắp vào ở hai cạnh sườn phía sau. Độ mở của các cánh tay vừa đủ, để không che khuất pho tượng, cổ tay đeo vòng, cánh tay tròn lẳn với các ngón thon búp măng nhỏ dài vẫn giữ được nét mềm mại uyển chuyển. Hai bên tượng Bồ Tát.

Lớp thứ tư: theo cách bài trí tượng cũng như mũ đội trên đầu, kiểu ngồi xếp bằng của tượng không thể hiện được là tượng gì, nên không có tên gọi cho tượng, hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. (Kim Đồng tức Kim điện đồng tử, từ nhỏ đã theo Phật xuất giá; Ngọc Nữ tức Ngọc gia nữ, con dâu ông Cấp - cô - độc trưởng giả, người nghe theo lời Phật, biết sám hối quy Phật).

Lớp thứ nămtượng Ngọc Hoàng, hai bên là tượng Nam Tào và tượng Bắc Đẩu, bộ tượng này nhằm giáo dục con người tránh ác hành thiện, để tránh bị trừng phật.

Lớp thứ sáu là toà Cửu Long - phật Thích Ca sơ sinh, thể hiện lại khung cảnh ra đời của đức Phật Thích Ca. Ngài xuất hiện nơi trần thế với hình thức một trẻ nhỏ, nhưng đã thấm đượm một tinh thần khẳng định về phật pháp. Với hình tượng chú bé tay trái chỉ trời, tay phải chỉ đất, ẩn chứa trong đó câu nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn". Trên trời, dưới đất chỉ ta. Quanh tượng là những con rồng tượng trưng cho bầu trời mây linh thiêng phun nước tắm cho Phật. Hai bên là tượng Di Lặc và tượng Tuyết Sơn.

Trong các chùa Việt Nam, Đức Di Lặc được diễn tả thành tượng một vị dáng thư thái, thanh thản, hết ưu tư của bậc tu hành sắp thành đạo thành Phật. Với miệng cười lạc quan, để vai và mình trần nhưng thân hình không gầy gò mà đẫy đà, tức là những dấu hiệu cho thấy ngài không phải lo buồn gì nữa (vì thế dân gian gọi ông “vô lo”).

Tượng Tuyết Sơn diễn tả Thích Ca Mầu Ni thời kỳ tu khổ hạnh ở núi Tuyết Sơn (tức núi Hy-ma-lay-a). Trong 6 năm, ngài mỗi ngày chỉ ăn cầm một một hạt gạo và một hạt kê. Dù sống khổ hạnh nhưng đạo phật vẫn không thành, ngài nhận thấy lối tu đó không có ích gì nên đã ra khỏi núi Tuyết Sơn, tu theo lối khác. Để kỷ niệm những năm tháng quyết xả thân cầu đạo của ngài, người ta tạc hình thù một người gày chỉ có da bọc xương không hơn. Dân gian gọi nôm na là tượng ông “nhịn ăn để mặc”.

Sát tường hậu thượng điện hai bên bài trí hai pho tượng: Tượng Quan Âm Tống Tử tượng Quan Âm Toạ sơn thần. Dọc hai bên Thượng điện là các pho tượng Thổ địa còn gọi là Kiên Lao Địa thần.

* Nhà tiền đường:

Bên trái, đầu tiên tiếp cận là ban thờ Đức ông người có công mua vườn của Thái Tử Kỳ - Ðà rồi thỉnh mời Phật Thích Ca Chư tăng đến đây thuyết pháp giáo hoá cho chúng sinh. Ông đã phát nguyện ủng hộ Phật pháp, coi giữ các chùa chiền nên khi xây dựng chùa ở bất cứ nơi đâu cũng thường tạc thờ ông với tư cách là vị thần bảo vệ chùa chiền. Tượng được thể hiện như một quan văn đội mũ cánh chuồn mặt đỏ, râu dài, vẻ mặt nghiêm nghị, hai bên là tượng hầu. góc phải tiền đường là ban mơ Đức Thánh Hiền chính là ngài ANanĐà tôn giả, vâng theo lời dạy của Đức Phật làm nhiệm vụ phân phát cơm, cháo... cho các chúng sinh đói khát. Tượng được thể hiện đầu đội mũ tỳ lư có bảy cánh sen, mỗi cánh sen có hình Đức Phật (còn gọi là mũ thất Phật), hai bên là tượng Diệu Nhiên và Đại Sỹ.

Cạnh ban thờ Đức Ông là ban thờ tượng Hộ Pháp Trừng ác, đối với gian bên tả là ban thờ tượng Khuyến Thiện. Hầu hết các chùa đều bày hai pho tượng hình võ sĩ, mặc áo giáp, đội mũ trụ, tay cầm binh khí, đứng trên lưng hai con sấu. Kích thước tượng rất lớn, Dân gian vẫn nói to như ông Hộ Pháp”. Hộ Pháp tức là bảo hộ cho Phật pháp.  Giáp hồi bên tả là 4 tấm bia đá gắn vào tường, giáp hồi bên hữu là ban thờ tượng Thánh Tăng, bên cạnh treo quả chuông đồng.

* Bài trí thờ tượng nhà Mẫu :

Hậu Cung : Xây bệ cao khoảng 1m2 làm ban thờ, nơi cao nhất giáp với hồi nhà là ban thờ tượng Tam Toà Thánh Mẫu, hai bên là tượng Cổ và tượng Cậu. Bên phải là tượng Thanh Tra và bên trái là tượng Giám Sát. Hàng thứ hai là tượng Ngũ vị tôn ông, hàng thứ ba ngồi giữa là tượng Quan Hoàng Bảy, bên hữu là tượng Quan Hoàng Bơ, bên tả là tượng Quan Hoàng Mười. Tiếp theo hàng cuối là tượng Cô và tượng Cậu được đặt tương xứng hai bên.

Tiền đường : Tại gian giữa nhà tiền đường bên trên cửa võng đề 4 chữ Hán : “Mẫu nghi thiên hạ, bên dưới là cửa võng được chạm thủng kết hợp chạm lộng với đề tài “tứ quý”, “tứ linh”. Gian bên hữu là ban thờ Chúa Thượng Ngàn hai bên có hai hầu. Gian bên tả là ban thờ tượng Quan Trần Triều, hồi bên tả là ban thờ tượng Đức Thánh Trần hai bên là tượng Cô tượng Cậu.

VI. GHI CHÉP THÔNG TIN VỀ DI VẬT.

* Chùa Chính.

1. Nhà tiền đường: 01 Chuông đồng; 04 bia đá; 01 khánh đá; 01 cửa võng gỗ; 01 bức hoành phi sơn son thếp vàng; 05 bát hương sứ men trắng vẽ lam. Các di vật có niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX.

2. Nhà thượng điện: 02 chóe sứ; 02 lọ lục bình sứ; 01 bát hương sứ; 05 lọ hoa sứ; 01 bát hương đồng; 03 mâm bồng gỗ sơn son thếp vàng; 02 chân nến gỗ sơn son thếp vàng; 01 câu đối gỗ sơn son thếp vàng. Các di vật có niên đại từ thế kỷ XX.

* Nhà Mẫu: 01 bức hoành phi; cửa võng gỗ; 01 hương án gỗ; 02 chân nến gỗ; 02 đài nước gỗ.

Bên cạnh đó chùa Thanh Nhàn còn bảo lưu được 48 pho tượng tròn trong đó có 03 pho tượng mẫu, 19 pho thuộc tín ngưỡng thờ Mẫu. Các di vật này đã gắn bó chặt chẽ với di tích và càng làm tang thêm phần giá trị cho di tích.

VII. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT.

Nằm về phía Bắc thủ đô Hà Nội, chùa Thanh Nhàn là một trong những di tích lịch sử văn hóa có niên đại xây dựng từ sớm. Trong quá trình tồn tại đó, chùa Thanh Nhàn cũng như các di tích khác trong vùng đã trải qua bao biến đổi thăng trầm cùng lịch sử dân tộc. Ngày nay, tuy di tích không còn vẻ cổ kính, sự bề thế vốn có trước đây, song những giá trị lớn về lịch sử, kiến trúc vẫn được bảo tồn nguyên vẹn và ngày càng được bồi đắp thêm.

* Về giá trị lịch sử:

Chùa Thanh Nhàn được xây dựng lên để thờ Phật, là nơi lưu giữ và chứng kiến những tấm lòng mộ Phật của nhân dân địa phương, là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, với những lẽ hội đặc sắc, những hoạt động văn hóa tinh thần đọc đáo, nơi duy trì củng cố mới quan hệ cộng đồng, nuôi dưỡng những quan niệm lối sống tốt đẹp, góp phần giáo dục các thế hệ kể tiếp, giáo dục lòng từ bi bắc ái, tinh thần yêu nước cho nhân dân địa phương, cũng như giáo dục đạo lý khuôn phép và cung cách ứng xử trong cộng đồng cư dân nơi đây.

* Giá trị kiến trúc nghệ thuật:

Chùa Thanh Nhàn là một trong những ngôi chùa hiện còn mang phong cách kiến trúc truyền thống. Nghệ thuật chạm khắc gỗ được tập trung ở cửa vống, hương án... với các đề tài trang trí tứ quý, tứ linh được bố cục cân đối, hợp lý được thể hiện khá công phu. Đó là một trong những họa tiết trang trí độc đáo phản ánh ý thức sùng bái tổ tiên của người Việt, tượng trưng cho nguồn gốc lịch sử của dân tộc.

Hệ thống tượng tròn trong chùa có kích thước không lớn, niên đại tạo tác từ cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, đó là những pho tượng khá chuẩn của nghệ thuật tạc tượng đương thời. Một số pho được tạo tác khá hoàn chỉnh như ba pho tượng Tam Thế, A Di Đà,... mỗi pho tượng được thể hiện bằng những nét khái quát riêng, phù hợp với tính cách của từng nhân vật hay pho Quan Âm Chuẩn Đề ra đời ở thế kỷ XIX.

Chùa Thanh Nhàn hiện còn bảo tồn được một hệ thống các di vật cổ gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau như: bia đá, chuông đồng, khánh đá....là nguồn tư liệu quý để tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của hệ thống di tích tôn giáo tín ngưỡng trong vùng, về sự tồn tại không thể thiếu trong đạo Phật trong sinh hoạt tinh thần của nhân dân, về lịch sử Phật giáo Việt Nam và cả về lịch sử hình thành và phát triển của vùng quê Thanh Nhàn. Ngoài ý nghĩa là thờ Phật, chùa

Thanh Nhàn còn phối thờ Mẫu, tượng Mẫu ở chùa cũng được quan tâm chú ý nhiều của khách thập phương. Khác với điêu khắc Phật giáo, các pho tượng Mẫu ở chùa Thanh Nhàn mang đậm nét dân dã, tràn đầy tính nhân đạo vốn có của dân tộc ta.

Sự sinh động trên từng pho tượng là giá trị điển hình của nghệ thuật điêu khắc dân gian truyền thống.

 *Giá trị văn hoá khoa học:

Ngoài giá trị riêng đó, chùa Thanh Nhàn còn mang giá trị chung trong tổng thể hệ thống các di tích trong vùng. Với một cảnh quan, thoáng dăng và mang đậm không gian văn hóa truyền thống, cùng với ngôi đền của làng chùa Thanh Nhàn sẽ trở thành một địa chỉ văn hóa du lịch trên tuyển tham quan về phía Bắc thành phố cùng với Loa Thành- Kinh đỏ của nhà nước Âu Lạc thời Thục An Dương và đền Gióng, đèn Sọ nơi thờ Thánh Gióng người có công đánh giặc Ân để bảo vệ đất nước.

Chùa Thanh Nhàn được UBND Thành phố Hà Nội công nhận là Di tích lịch sử nghệ thuật chùa Thanh Nhàn tại Quyết định số 6709/QĐ-UBND ngày 24/12/2009./.

 

DI TÍCH NGHỆ THUẬT ĐỀN THANH NHÀN XÃ THANH XUÂN – HUYỆN SÓC SƠN – TP HÀ NỘI
Ngày đăng 06/09/2024 | 03:59  | Lượt truy cập: 372

I. TÊN GỌI DI TÍCH

Đền Thanh Nhàn ở xóm Trung thôn Thanh Nhàn, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Từ xưa vẫn chỉ có một tên gọi là đền Thanh Nhàn, địa phương có nhiều lần thay đổi tên gọi và địa vực hành chính.

Trước cách mạng thôn Thanh Nhàn gọi là xã của tổng Cổ Bái, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên. Cổ xưa hơn, huyện Kim Anh tên là Kim Hoá thuộc trấn Phúc Yên. Năm 1950 tỉnh Phúc Yên sát nhập với Vĩnh Yên với tên gọi là tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1968 Vĩnh Phúc sát nhập với Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1977 huyện Kim Anh sát nhập cùng huyện Đa Phúc thành huyện mới với tên gọi Sóc Sơn thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1978 huyện Sóc Sơn sát nhập về Hà Nội, đền Thanh Nhàn thuộc thôn Thanh Nhàn, xã Thanh Xuân huyện Sóc Sơn, tỉnh Hà Nội kể từ đó.

Đền Thanh Nhàn còn có tên gọi là đền Tam Tổng vì ngôi đền thờ Phù Đổng Thiên Vương nhưng có 3 tổng đều phục vụ lễ hội và cùng thờ Ba tổng. Trước Cách mạng tháng 8 là các tổng:

- Tổng Cổ Bái gồm: xã Thanh Nhàn, Cổ Bái, Hiền Lương, Phù Lai và Thạch Lỗi là tổng sở tại.

- Tổng Kim Anh có các xã Khả Do, Xuân Vương, Xuân Mai, Thanh Lâm, Bạch Đa và Ngọc Trì.

- Tổng Gia Thượng có các xã Chi Đông,  Gia Trung, Gia Thượng, Phù Trì, Bảo Tha.

 

 

Hình ảnh: Di tích Đền Thành Nhàn hiện nay

II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ DI TÍCH - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH.

1. Địa điểm phân bố.

Đền Thanh Nhàn nằm ở vị trí trung tâm nửa về phía Tây Bắc của xã Thanh Xuân, thuộc địa phận xóm trung, thôn Thanh Nhàn.

Xã Thanh Xuân là một trong 25 xã, thị trấn của huyện Sóc Sơn. Xã có địa giới nằm về phía Tây  của huyện. Xã Thanh Xuân tiếp giáp với các xã: Tân Dân, Phú Cường, Quang Tiến, Hiền Ninh, Minh Phú của Sóc Sơn và 2 xã Quang Minh, Kim Hoa của Mê Linh.

Huyện Đa Phúc thời Trần gọi là Tân Phúc, đời Lê đổi là Thiên Phúc, sau đó lại đổi thành huyện Tiên Phúc thuộc Châu Bắc Giang – Lộ Bắc Giang. Đầu thời Nguyễn đổi là Đa Phúc thuộc phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc. Năm 1831, thuộc tỉnh Bắc Ninh, năm 1903 thuộc tỉnh Phúc Yên. Năm 1913, Phúc Yên đổi lại thành đại lý Phúc Yên trực thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1923 lập lại tỉnh Phúc Yên gồm Phủ Đa Phúc, Yên Lãng và 2 huyện Kim Anh, Đông Anh.

Năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1968 là tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1977, Đa Phúc và Kim Anh hợp nhất gọi là huyện Sóc Sơn tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1978, Sóc Sơn sáp nhập trở thành một huyện ngoại thành của Hà Nội.

2. Đường đến di tích.

Ngôi đền cách 8 km về phía Tây – Tây Nam của UBND huyện Sóc Sơn. Từ Hà Nội để đến với di tích, khách tham quan có thể đi bằng nhiều đường, song để tiện lợi có thể đi theo một trong các đường chính sau:

- Đường qua cầu Chương Dương hay Long Biên qua QL1 rẽ qua cầu Đuống đi QL3 đến ngã ba Phù Lỗ rẽ trái đi khoảng 11km là đến xã Thanh Xuân, đi dọc QL2 qua UBND xã Thanh Xuân 700m là đến chỗ rẽ vào đền, đền cách QL2 khoảng 500m.

- Đường qua cầu Nhật Tân đi qua sân bay Quốc tế Nội Bài, đến ngã tư Võ Văn Kiệt rẽ phải vào QL2 (hướng đi Phúc Yên), đi dọc QL2 qua UBND xã Thanh Xuân 700m là đến chỗ rẽ vào đền, đền cách QL2 khoảng 500m.

- Đường qua cầu Thăng Long đến đến ngã tư Võ Văn Kiệt rồi tiếp tục hành trình như trên.

Các phương tiện giao thông sử dụng đều tiện lợi để đến di tích. Khoảng cách từ Đền đến sân bay Quốc tế Nội Bài là 4km.

 

Hình ảnh: Đường vào Di tích Đền Thanh Nhàn

III. SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ

Đền Thanh Nhàn thờ tưởng niệm Phù Đổng Thiên Vương Thánh Gióng, nơi lưu lại sự kiện lúc đánh giặc thánh Gióng đã về qua đây nghỉ ngơi và lấy thêm quân trong dân làng. Thần tích của đền – Thiên vương linh tích được được ghi chép từ năm 1574 và sao lại 1741 hiện nay còn nguyên vẹn kể lại rằng:

Vào thời Hùng Huy Vương tức vua Hùng thứ 6 ở làng Phù Đổng có gia đình bà Tạ Thị Thuận ăn ở hiền lành phúc đức, nhân hậu song không vui vì mãi không có con. Về già bà mới sinh được 1 người con trai vào ngày 5 tháng giêng âm lịch. Người con trai có diện mạo khôi ngô, tuấn tú sắc diện phi thường song đã qua 3 năm mà chú bé vẫn chẳng biết nói cười. Lúc bấy giờ nước ta có giặc Ân sang xâm lược, bọn giặc thả sức giết người, cướp của gây nhiều tội ác dã man. Thế giặc rất mạnh tấn công tới tận đất Vũ Ninh. Vua Hùng lo lắng họp bàn với văn võ bá quan tìm cách chống giặc. Có quan Tân xin vua hạ chiếu đi khắp nơi, đến vùng kinh Bắc, quận Vũ Ninh, phủ Thuận An, huyện Quế Dương, hương Phù Đổng. Nghe tiếng sứ giả, chú bé thốt nhiên nói cười bảo mẹ mời sứ giả vào nhà. Chú nói với sứ giả nhà vua xin vua đúc cho một con ngựa sắt và một roi sắt để chú ra giúp nước. Sứ giả lĩnh ý về triều tâu vua, nhà vua vui mừng như nguyện sai đúc ngựa sắt, roi sắt mang đến cho chú bé. Chú bé đòi thử, nhảy lên cưỡi, ngựa sắt cử động phi như bay làm cho quân sĩ vô cùng kỳ lạ. Chú bé vụt lớn lên cao lớn dị thường tự xưng “Ta là Thánh Đổng” phi ngựa cầm quân ra trận.

 

Hình ảnh: Khu vực thờ thánh Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng)

Vào ngày 6 tháng Giêng, tiệc mừng công lớn thắng trận giết trâu mở thưởng khao quân. Thánh Đổng cưỡi ngựa đến tổng Thiên Phúc, huyện Kim Hoa, hương Thanh Nhàn (Lúc bấy giờ có tên là hương Thanh Khốn) thì dừng người ngựa xuống nghỉ lại. Thấy dân thôn An Bài yên vui nhà khang vật thịnh khung cảnh tươi tốt dân làng từ hậu đã mệnh cho dân làng thờ mình mãi mãi về sau. Sau đó Thánh Đổng lấy 10 người cường tráng ở trong thôn làm gia thần cùng theo ra trận cho dân tiền của lập đền thờ Hậu.

Thánh Đổng dẫn quân tiến đến quận Vũ Ninh tiến thẳng vào đồn Phù Sơn trú quân của giặc. Người công niệm thần chú lôi phong hoá phép thần thông đánh cho giặc Ân tan tác. Quân Ân thua chạy hoảng loạn kêu lên “Vị Thiên tướng giáng”. Sau đó, người cưỡi ngựa đến núi Vệ Linh tức đền Sóc Sơn thì bay lên trời. Mọi người hoảng sợ tâu biểu lên vua. Vua nói: “Đã đánh giặc Ân rồi đó là công của Thiên tướng gíup cho, sắc chuẩn y cho thờ phụng ở các nơi thờ cúng Thánh Đổng, phong mỹ tự là Phù Đổng Thiên Vương”. Nhà vua cho phép dân làng Phù Đổng, Sóc Sơn (Vệ Linh và Thanh Nhàn)…lập đền thờ Ngài. Dân làng lập đền thờ tại chỗ nghỉ ngơi của ngài khi xưa, tức đồi Thanh Nhàn nơi ngôi đền thờ đặt hiện nay, xuân thu hàng năm vẫn phụng thờ hương khói.

Hàng năm, vào ngày 6 tháng Giêng, đền thờ tổ chức ngày hội tưởng nhớ ngày Phù Đổng Thiên Vương đã qua đây mở tiệc khao quân và nghỉ lại trên đường đi đánh giặc. Dân làng còn lưu truyền truyện Phù Đổng Thiên Vương đổi tên cho làng, chuyện kể rằng:

Lúc trước đó làng có tên là Thanh Khốn khi đi qua nghỉ ở làng thấy cảnh đẹp an bài, dân khang vật thịnh, quang cảnh tươi vui, nhàn nhã đã đổi tên cho làng sang gọi là Thanh Nhàn và từ đó dân làng giữ đến tận bây giờ. Phù Đổng còn đặt tên con sông trước làng là sông Nguyệt Đức. Đến thời Pháp thuộc mới đổi thành sông Cà Lồ song nó vẫn có 2 tên song song cùng gọi.

Xung quanh làng nhất là trên tuyến đường từ xóm chợ Nga lên đến núi Vệ Linh đền Sóc Sơn có rất nhiều dấu tích vết chân ngựa mà dân gian vẫn thường gọi là vết chân ngựa Phù Đổng. Những ao chuôm chụm 4 có hình vết chân ngựa phi rất kỳ hình, trải qua thời gian đã bị lấp mất một số nhưng hiện tại còn tồn tại cho chúng ta suy thức hay về vị anh hùng văn hoá Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương.

Trong lịch sử cách mạng của địa phương, ngôi đền cũng là một vật chứng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của địa phương.

Ngôi đền trước và trong cách mạng T8 năm 1945 là nơi thường xuyên tổ chức các cuộc mít tinh hội họp của phong trào Việt Minh tiền khởi nghĩa. Chính quyền CM thành lập cuối năm 1945 trong thời gian lụt đã lấy đền làm trụ sở làm việc, điều hành công việc xã hội và địa phương. Tại đền tổ chức lớp tập huấn luyện dân quân tự vệ của ta, nhiều cuộc họp mít tinh, những ngày lễ cũng được tiến hành ở đây. Sau này khi tạm chiếm ngôi đền là vật chứng của sự phá hoại, bọn thực dân và phản động đã phá đền lấy gạch xây bốt, phá nhiều đồ thờ tự nhất là đồ gỗ. Ngôi đền cùng chùa tới 100 gian bị phá gần hết.

Trong thời gian đó có một số đơn vị bộ đội địa phương và dân quân có qua lại hoạt động ở đây, các đồng chí cán bộ Đảng uỷ, UBND chính quyền địa phương đã trực tiếp tiến hành sơ tán các tài liệu thần tích sắc phong, chữ hán của đền. Những tài liệu bằng giấy đó đã được giữ gìn cẩn thận an toàn đến tận bây giờ việc giữ gìn di sản văn hoá đó cũng là bài học quí báu với lịch sử với ngôi đền và cách mạng địa phương.

IV. LOẠI DI TÍCH

Có thể xếp đền Thanh Nhàn là loại di tích nghệ thuật và danh thắng. Hai loại hình sẽ phản ánh giá trị của di tích, các giá trị sẽ bổ xung hỗ trợ cho nhau.

1. Giá trị về nghệ thuật: Với các di vật thờ quí đẹp như pho tượng thánh bằng đồng, đôi ngựa đồng, đôi rồng đá, chuông đồng, bia đá… là những tác phẩm nghệ thuật quí đẹp có giá trị lớn về nghệ thuật và mỹ thuật.

2. Giá trị về danh thắng: Từ xưa đến nay khu đền Thanh Nhàn là khu cảnh quan đẹp được lưu truyền ghi dấu và ca ngợi có tiếng của địa phương và các vùng xung quanh.

V. KHẢO TẢ DI TÍCH

1. Niên đại xây dựng, quá trình hư hỏng và sửa chữa

Niên đại: Ngôi đền đã có từ lâu theo sắc phong và bia ký ghi chép ở đền cuối TK 16 đã có, thần tích của ngôi đền cũng kể lại ngôi đền có từ lâu đời nhưng đến năm 1947 thực dân Pháp và tay sai đã phá hoại khu đền về phần kiến trúc. Tất cả chùa và đền có tới hàng trăm gian nhà, nhiều di vật thờ cúng bằng gỗ cũng bị chúng phá huỷ. Toàn khu vực đền chùa chỉ còn lại hậu cung hay cung đệ nhất là còn tồn tại. Cung đệ nhất hiện còn về niên đại được xây dựng đến nay khoảng 200 năm vì không có tài liệu thật chính xác nên không thể nói rõ nó làm năm nào.

Cung đệ nhị, đệ tam và chùa, cung tiền tế được khôi phục mới sau này trên nền cũ khi xưa, tam quan hiện không còn và chưa khôi phục lại.

- Cung đệ nhị làm năm 1967.

- Nhà mẫu của chùa bên phải cung đệ nhị làm năm 1968, chùa được khôi phục lại năm 1988.

- Cung đệ tam và nhà bán bình khôi phục năm 1988, cung tiền tế hoàn thành năm 1989.

2. Bố cục mặt bằng, miêu tả kiến trúc của đền:

Hiện đền Thanh Nhàn có 4 cung sắp xếp bố cục theo kiểu chữ tam, có hậu cung chuôi vổ ở đằng sau. Theo thứ tự từ phía trước vào thì có các cung theo thứ tự tên gọi là: Cung tiền tế, cung đệ tam, cung đệ nhị và cung đệ nhất tức hậu cung làm câu liền vuông góc dài về phía sau. Tất cả 4 cung đền đều là trên một nền đất thế và dọc theo thế cao lên của quả đồi. Hậu cung có 3 vì, 6 cột, các cột có đường kính 28-30cm được sơn son. Có 3 bộ vì kèo thiết kế theo kiểu kèo tuột, 2 trụ trốn đón thượng lương. Hai đầu cột thả bẩy gối tường có xà don ghép cột đè tường. Diện tích thông thuỷ là 6,4m x 6,5m = 50m2. Giữa lòng cột chính giữa hậu cung có một bục đá xanh cao 55m dài 2.4m rộng 2.1m, trên bục để tượng đức thánh. Phía trước có một bục gạch nhỏ hơn để các đồ tế lễ và làm lễ của khách thập phương. Từ hậu cung tức cung đệ nhất ra cung đệ nhị là tường xây có chứa 3 cửa, cửa chính giữa rộng, hai cửa bên hẹp hơn.

Ba cung đệ nhị, đệ tam và tiền tế cùng có diện tích 7m x 11,5m = 80m2 cùng có 3 gian 2 dĩ, gian chính giữa rộng 3,3, hai gian bên 2,6m và 2 dĩ 1,5m. Các vì của ba cung đều làm theo kiểu vì kèo của hậu cung. Kèo tuột quá giang gối cột có tiền kẻ hậu bẩy, bào trơn đóng bén kiểu thức đơn giản. Cung đệ nhị hàng cột trung tâm trước có chứa bậu ghép cửa ván bưng kín dưới trên ghép trấn song thoáng theo kiểu “thượng song hạ bản”. Cung đệ nhị và cung đệ tam được làm thoáng không xây tường. Cung đệ tam có xây gạch kín giá trước và chừa 3 cửa ở phía trước. Bên phải của cung đệ nhị là nhà mẫu của chùa, bên trái là nhà bá bình nơi nấu bếp và nghỉ ngơi của các cụ thủ từ. Cung đệ nhị có 3 cột, phía sau là cột gạch, cột hiên đơn giản ở phía trước đòn kẻ. Bâỷ của cung đệ tam có cột hiên đón, còn bẩy của cung tiền tế và kẻ của cung đệ tam gối lên tường không làm cột hiên đón. Các cung đều làm đầu hồi bít.

3.Nghệ thuật của các di vật quí trong đền

a) Tượng Đức Thánh:

Tượng Phù Đổng Thiên Vương bằng đồng được đặt chính giữa của cung đệ nhất tức hậu cung của đền. Pho tượng đúc liền với án ngồi thành một thể thống nhất. Án ngồi có kích thước 40cm, rộng 60cm, dài 11m, quanh 2 đầu án có trang trí trổ hoa văn cúc dây, pho tượng caocả mũ là 2,05m, ngang vai 72cm, dưới nếp áo ngang là 1,3m và từ sau ra trước là 1,05m ước chừng trọng lượng pho tượng khoảng 2,5 tấn kể cả án ngồi, so sánh với các pho tượng đồng khác của di tích ở Hà Nội như đền quan Thánh có tượng Trấn Vũ cao 3,7m nặng chừng 4 tấn được đúc năm 1667, tượng Trấn Vũ ở đền Cự Linh, Gia Lâm cao 3,8m nặng hơn 4 tấn đúc năm 1788, pho Adi đà chùa Ngũ Xá cao 3,95m nặng chừng 10 tấn đúc năm 1952, tượng Lý ông Trọng ở Chèm…tượng Phù đổng thiên vương ở đền Thanh Nhàn là một trong những pho tượng có trọng lượng lớn của Hà Nội. Niên đại đúc pho tượng này là năm 1595 tức năm Quang Hưng thứ 17, vì trên cơ sở bia khắc năm Đức long thứ 6 (1634) có ghi: “bà cung tần nội phủ của ninh khang thái vương là Trần Thị Ngọc Dụ pháp hiệu Hân trí thái phó vinh quận công muốn cầu công đức bỏ ra số của lớn xây dựng cung điện, dựng tượng Đức Sóc thiên vương…”.Nếu như vậy, pho tượng ở đền Thanh Nhàn có niên đại đúc sớm trong các pho tượng đồng có trọng lượng lớn của Hà Nội.

Pho tượng được bố trí ngồi ở tư thế thiết triều tĩnh tại khuôn mặt trẻ, hồn nhiên tươi mát, môi khép nghiêm nghị, tự tin, đôi tai dài như tai phật biểu hiện sự trường thọ, phúc hậu dài lâu, đôi tay dài duyên vừa bề thế, vai xuôi xuôi vừa phải, tay trái úp nhẹ lên đầu gối, tay phải ngửa lòng dang nhẹ nhàng như đang giảng thuyết, phải chăng thêm ý của người thợ đúc đồng muốn hoạ lại việc đức thánh nói chuyện với dân làng khi xưa. Trên đầu tượng đúc liền là mũ chính giữa có trang trí hoạ tiết rồng chầu chữ vương, hai bên là đôi cánh chuồn dài vừa phải, dưới chân là đôi hài mũi rồng khá dữ tợn. Trước ngực áo tượng đắp nồi vòng tròn thái cực với biểu hiện đôi rồng chầu mặt nguyệt, có nhiều hoạ tiết trang trí khác ở áo toàn thâncó các hình trang trí điểm xuyết như hoa hồng, hoa cúc mây vờn, quả lôi… những biểu tượng cầu mong mưa thuận gió hoà của dân cư nông nghiệp. Sau lưng xuôi bờ va iđôi phượng có biểu hiện thường thấy là hổ phù ngậm chữ thọ, cá chép vượt môn. Các nếp rủ ở tay và tà áo được tạo tác tự nhiên sống động vừa nghiêm trang vừa duyên dáng gây cho ta cảm giác thật là vui mắt.

b) Đôi ngựa thần mã hồng bạch đồng và quan giám mã gỗ

Cung đệ nhị có đôi ngựa thường được gọi là đôi thần mã hồng bạch được đúc bằng đồng. Về niên đại đúc có thể theo bia Đức Long 6 (1634), đôi ngựa được đúc năm 1595, cao 1,95m chỗ yên cao 1,3m, dài 1,8m, nặng chừng 1 tấn. So với các đình chùa khác của nước ta mới thấy xuất hiện dạng ngựa làm bằng gỗ, cốt mây đắp thì đôi ngựa này là đôi ngựa kim khí quí hiếm số 1 của nước ta. Đây là sản phẩm quí báu của kỹ nghệ đúc đồng mà chưa có nơi khác có ngựa kim khí to như vậy. Đôi ngựa được đúc đủ cả yên cương, hàm tiết trang trí công phu đẹp mắt, trên y cương dải yếm hàm thiết có hoa văn cầu mong cho sự thành đạt như: ống quyển hòm sắc hoa cúc hoa hồng hoặc hình lân phượng trên nền hoa văn chữ vạ. Chính giữa trán có hoạ tiết chữ thọ đắp nổi tạo sự trang nghiêm duyên dáng.

Bên cạnh đôi ngựa là 2 pho tượng vệ sĩ giám mã bằng gỗ, cao 1,7m mặt đượctạo dáng quắc thước nghiêm nghị, tay bắt quyết dũng mãnh, mình mặc áo giá thắt dải buông trước bụng thắt nút kiểu con do. Đầu đội mũ kim khôi làm khá cầu kỳ. Hai pho tượng được tạo tác về hình thể nét mặt toát lên khí thế trang nghiêm kiên cường.

3. Giá trị danh thắng của ngôi đền

Toàn bộ ngôi đền và ngôi chùa đều ngoảnh hướng Nam -Tây Nam trên một quả đồi lớn. Vượt qua cánh đồng là dòng sông Nguyệt Đức hiền hoà. Theo phong thuỷ thế ngôi đền được mệnh danh là bạch tượng ẩm thuỷ - có hình con voi trắng uống nước. Ngay trước đền là là hồ nước quanh năm sâu nước càng tôn cao quang cảnh đẹp cho di tích. Quả đồi của đền còn một số cây cổ thụ như đa, sữa, lộc…cũng góp phần tôn đẹp cho di tích. Theo các văn bia, bài minh, chuông từ thời Minh đến Nguyễn đều công nhận ngôi đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thanh Nhàn là một cảnh đẹp có giá trị danh thắng vào bậc nhất vùng Kim Hoa, Kim Anh. Cùng với các đồi núi khác trong vùng như núi Nga, núi Sậu và dòng sông Nguyệt Đức, cánh đồng và làng xóm ôm quanh cho ta thấy đền Thanh Nhàn có giá trị về danh lam thắng cảnh. Ngôi đền lại làm trên một quả đồi cao rất dễ thấy từ các nơi và từ đường đi, quang cảnh phong quang rộng rãi càng làm cho giá trị danh thắng của di tích phong phú.

VI. THỐNG KÊ HIỆN VẬT TRONG ĐỀN

- 01 quyển thần tích: viết năm hoàng triều Hồng phúc nguyên niên (1574) do hàn lâm lễ vận động các dân học sĩ Nguyễn Bính soạn và nội các sứ bộ Tái tuân thể phụng sao chính bản năm 1741. Thần tích viết trên giấy gió đỏ mà không phải dễ thấy ở các di tích khác. Thần tích ở đền với tên “Thiên vương linh tích” là quyển thần tích hậu Lê, tài liệu có giá trị nhiều mặt.

- 07 bản sắc phong cổ nhất làm năm Chính hoà thứ 4 (1683) còn có các bản khác của năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1710), Vĩnh Khánh 2 (1730), Cảnh Hưng 1(1740), Chiêu Thống 1 (1787), Minh mệnh 2 (1821), Thiệu trị 4 (1844). Các sắc của các vua đều phong Phù đổng thiên vương làm thượng đẳng thần có kèm nhiều mỹ tự.

- 01 quyển mục dục, hương ước và các tục lễ ở địa phương.

- Pho tượng tưởng niệm đúc đồng trọng lượng 2,5 tấn, một tác phẩm đồng đồ sộ và có giá trị nghệ thuật, mỹ thuật.

- Đôi ngựa đồng trọng lượng tới 1 tấn là tác phẩm ngựa kim khí lớn nhất nước ta hiện nay và hai quan vệ sĩ giám mã gỗ.

- 02 bộ kiệu bát cống sơn son thiếp vàng NT-TK 19, 01 kiệu bành trạm trổ đẹp.

- 02 ngai thờ gỗ sơn son thiếp vàng thờ Đức Quang, Đức Minh, Đức thánh tam giang từ đình của làng La chuyển về. NT tạo tác TK 19.

- 02 đôi rồng đá hậu Lê, 01 đôi mây hoá rồng, 01 đôi rồng nhân yên ngựa. theo tâm sbia dựng năm Đức Long (1634) có nói đến đôi rồng này nó được dựng năm 1629. Đôi ngoài là mây hoá rồng hoạ tiết trang trí phóng khoáng cách điệu tạo đẹp về tổng thể hình khối. Nét chạm trổ chấm phá song không đơn điệu, các vân mây xoắn thân rồng được làm cách điệu. Đôi rồng phía trong trước thềm cung tiền tế là rồng yên ngựa, râu tóc bờm và khuôn mặt dữ tợn áp chế như thường thấy ở các con rồng hậu Lê. Mũi rồng sư tử, mắt lồi, hàm chìa, đuôi rồng thắt khúc, các khắc đá được tạo dứt khoát và cách điệu. So sánh có nhiều đặc điểm giống đôi rồng ở cổng Văn miếu Hà Nội.

- Một bát hương đá NTTK 19 cao 40cm dày 10cm chạm trổ đẹp kỹ với đôi rồng chầu dáng khoẻ. Đây là một trong những bát hương hiếm thấy của ta.

- Có 3 tấm bia: Bia Đức Long thứ 6 (1634) có nhiều giá trị là bia của đền; 02 bia Đức Long thứ 2 (1733) và bia Nguyễn (1929) ở chùa Sóc Sơn.

- Chuông đồng có niên đại Gia Long thập bát niên (1820) cao 1,35m cả tai và đường kính đế là 85cm, có nhiều giá trị mỹ thuật (Bài minh có ý nghĩa về lịch sử di tích).

- 08 câu đối, 02 cuốn thư và có chép thơ nói rõ thêm công đức của Phù đổng thiên vương.

- 01 chuông nhỏ không khắc minh, có khắc 4 chữ “Sóc Sơn linh từ”.

- 01 chiếc khánh đá dài to nhưng đã vỡ đôi

VII. GIÁ TRỊ KHOA HỌC NGHỆ THUẬT VÀ VĂN HOÁ DI TÍCH

1. Về khoa học lịch sử

Hình tượng chú bé Thánh Gióng – Phù Đổng Thiên Vương từ xưa đến nay đã thấm sâu vào tâm khảm, quan niệm của dân tộc. Lịch sử nước ta ghi nhận hình tượng đó là biểu trưng cho truyền thống anh hùng bất khuất cảu dân tộc. Truyền thống thượng võ anh hùng, yêu nước, căm thù giặc đã ghi nhận và khắc sâu mãi mãi hình tượng Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương. Lịch sử và khoa học đã công nhận thánh Gióng là anh hùng văn hoá trong tứ bất tử bất diệt của dân tộc Việt. Đền Thanh Nhàn cũng tiếp theo với các đền đình, chùa Việt Nam minh chứng rõ hơn cho huyền thoại người anh hùng văn hoá này.

Bước chân oai hùng phù đổng là bài học là hình tượng vô cùng trang trọng của lịch sử xây và gìn giữ đất nước. Khu đền sẽ góp phần thêm cho tài liệu vật chứng, chứng minh cho hình tượng Phù Đổng Thiên Vương.

2. Giá trị về danh lam nghệ thuật và văn hoá

Với các di vật thờ cúng quí hiếm như pho tượng đức thánh bằng đồng, đôi ngựa đồng, bia đá, hai đôi rồng đá, thần tích hậu Lê 1741, sắc phong cổ… là những di vật quí ít nơi có. Kho của báu lại tập trung nói về đức thánh Phù đổng thiên vương vừa có giá trị nhiều mặt về khoa học, lịch sử nghệ thuật và mỹ thuật. Nhiều di vật là những tác phẩm nghệ thuật đẹp, quí hiếm. Đền Thanh Nhàn nằm trên quả đồi lớn, quang cảnh thoáng rộng nên thơ, từ xưa qua các tài liệu văn bia bài minh chuông đều coi di tích là 1 danh lam nhất vùng. Giá trị danh thắng qua thời gian và chiến tranh huỷ hoại nếu có phương án bảo tồn và tôn tạo gìn giữ tốt khu đền chắc chắn sẽ trở thành 1 danh lam đẹp hoà nhập vào khung cảnh nông thôn mới.

Trong phong tục hội lệ địa phương hàng năm biểu hiện nhiều truyền thống văn hoá quí báu của nhân dân ta, truyền thống thượng võ anh hùng của lễ kéo quân, kéo cờ, bơi chải, đua thuyền… truyền thống đoàn kết lao động cần cù coi trọng nhân dân và đạo đức sống, Khu đền đã đi vào lịch sử oai hùng của dân tộc, nó cần được gìn giữ và phát huy, phục vụ thiết thực cho cuộc sống của con người.

Đền Thanh Nhàn được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử nghệ thuật Đền Thanh Nhàn tại Quyết định số 168-VH/QĐ ngày 02/3/1990. Trên cơ sở lưu trọng truyền thống của quê hương đất nước, các cụ phụ lão trong thôn vẫn phân công cùng giữ gìn bảo vệ ngôi đền. Đồng thời Đảng uỷ - UBND xã Thanh Xuân vẫn tổ chức một Ban bảo vệ quản lý di tích thực hiện đúng theo pháp luật của nhà nước./.

         

DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT ĐÌNH THẠCH LỖI XÃ THANH XUÂN – HUYỆN SÓC SƠN – TP HÀ NỘI
Ngày đăng 06/09/2024 | 03:51  | Lượt truy cập: 73

I. TÊN GỌI

Đình Thạch Lỗi là tên thường gọi của di tích theo tên thôn Thạch Lỗi. Tên nôm cổ xưa gọi là làng Luổi. Di tích hiện nay thuộc thôn Thạch Lỗi hay Thạch Cốc, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội.

 

 

 

 

Hình ảnh: Di tích Đình Thạch Lỗi ngày nay.

II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ DI TÍCH - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH.

1. Vị trí phân bố.

Đình Thạch Lỗi hiện nay thuộc thôn Thạch Lỗi, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

Trước CMT8, Thạch Lỗi là một xã thuộc tống Cổ Bái, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên. Sau CMT8 là thôn thuộc xã Thanh Xuân, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên. Năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1968 là tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1977, Đa Phúc và Kim Anh hợp nhất gọi là huyện Sóc Sơn tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1978, Sóc Sơn sáp nhập trở thành một huyện ngoại thành của Hà Nội.

Xã Thanh Xuân là một trong 25 xã, thị trấn của huyện Sóc Sơn. Xã có địa giới nằm về phía Tây Nam của huyện. Xã Thanh Xuân tiếp giáp với các xã: Tân Dân, Phú Cường, Quang Tiến, Hiền Ninh, Minh Phú của Sóc Sơn và 2 xã Quang Minh, Kim Hoa của Mê Linh.

2. Đường đến di tích.

Đình Thạch Lỗi năm về phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km. Ngôi đền cách 6 km về phía Tây – Tây Nam của UBND huyện Sóc Sơn, đi đường 131 sang QL2, đường đi là 11km. Từ Hà Nội, quý khách đến với di tích có thể theo nhiều đường, song có thể đi theo 1 trong 2 đường chính sau:

- Đường qua Cầu Nhật Tân đến đường Võ Văn Kiệt rẽ phải đầu QL2 đi khoảng 500m rẽ trái vào là đến Đình Thạch Lỗi.

- Đường qua cầu Thăng Long đến đầu QL2 thì tiếp tục như cuộc hành trình trên đi khoảng 500m rẽ trái vào là đến Đình Thạch Lỗi.

Để đến với di tích, quý khách có thể sử dụng tiện lợi tất cả các phương tiện giao thông đường bộ.

III. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ

Thôn Thạch Lỗi nằm trong tam tổng cùng lễ về đền Thanh Nhàn, thờ Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương. Ngôi đình làng thờ thành hoàng là thánh Tam Giang: Trương Hống, Trương Hát - những vị tướng giúp nước thời Lý Bí và Triệu Quang Phục vào thế kỷ thứ VI. Năm 542, Lý Bí lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Lương đô hộ, anh em Trương Hồng, Trương Hát là những người theo về giúp sức đầu tiên. Quân Lương thua rút chạy về nước, nhờ công lao của rất nhiều tướng sĩ dưới quyền thủ lĩnh Lý Bí trong đó có thể nói đến những kế sách thuỷ binh giá trị của anh em họ Trương. Lý Bí lên ngôi vua, lập nước Vạn Xuân năm 544, đặt niên hiệu là Lý Nam Đế, anh em họ Trương được phong thưởng cấp thực ấp trông coi vùng Kim Hoa, Kinh Bắc. Anh em họ Trương ra sức phò giúp Triệu Quang Phục, hay Triệu Việt Vương khôi phục lại chủ quyền trong thời gian này. Do mắc mưu của Lý Phật Tử, Triệu Quang Phục phải thua và mất. Lý Phật Tử thu phục anh em họ Trương lúc đó đã lui về vùng thực ấp ở ẩn để tránh đổ máu cho sinh linh. Anh em ông quyết định quyên sinh ở ngã ba Xà. Anh em họ Trương đã có câu nói khảng khái: “Tôi trung không phò hai chúa” khẳng định lòng trung vua yêu nước của mình. Đế nhớ công lao của hai ông, nhiều làng lập đền thờ anh em họ Trương, nhất là vùng có 3 con sông: (sông Thương, sông Cầu, sông Đuống), cho nên có tên gọi là thánh Tam Giang. Thạch Lỗi nằm cạnh sông Cà Lồ nhập dòng về sông Cầu, vùng có nhiều thôn, làng cùng thờ thánh Tam Giang làm thành hoàng làng.

Việc tôn vinh Đức Thánh Tam Giang được ca ngợi qua các câu đối treo trong đình như:

Trung Triệu hiển danh lưu quốc sử

Phù Lê chính khí tráng sơn hà

Dịch là:

Trung nhà Triệu lưu danh vào sử sách

Phù nhà Lê khí phách ngay thẳng với sơn hà.

Hay là:

Khước Tống bình Lương phương thanh trương nhật nguyệt

Cứu dân phù Triệu tiết liệt bạch sơn hà.

Dịch là:

Đuổi nhà Tống giữ nhà Lương tiếng thơm đến tận mặt trăng mặt trời

Cứu dân phù vua Triệu quan tâm giải phóng núi sông.

Đình Thạch Lỗi còn là nơi ghi dấu một số sự kiện cách mạng kháng chiến ở địa phương. Năm 1936 – 1939, đình Thạch Lỗi có lớp học “Sơ học yếu lược”. Trong CMT 8/1945 là nơi tổ chức các cuộc mít tinh hội họp chào mừng chính quyền cách mạng mới và Ủy ban hành chính kháng chiến được đặt tại đình.

Trong kháng chiến chống Pháp, đình Thạch Lỗi là nơi tập trung của bộ đội, dân quân tự vệ và là nơi bộ đội du kích trú ẩn thường xuyên mỗi khi đi, về hoạt động.

Theo các tài liệu ghi chép, đình Thạch Lỗi được khởi dựng vào cuối thời Lê thế kỷ XVIII và được tu bổ sửa chữa nhiều lần ở thế kỷ XIX – XX.

- Năm 1942, sau chiến tranh đại bái đình bị nghiêng, nhân dân tu sửa kê lại cho đứng và sửa cung chính tẩm.

- Năm 1949 bỏ sàn đình và chấn song xung quanh kiến trúc.

- Năm 1980 nhân dân cho xây tường xung quanh.

- Năm 1990 xây dựng nền đình.

- Năm 1991 sửa thay cửa bức bàn thành cửa ra vào cánh gỗ ghép.

- Năm 1995 xây sân gạch cho di tích.

- Năm 1997 sửa phần mái, thay các xà, hoành, dui.

IV. KHẢO TẢ DI TÍCH.

Đình Thạch Lỗi nằm giữa đất của thôn, hơi chếch về phía nam là dòng sông Cà Lồ. Ngôi đình được bao bọc bởi tường và rào ngăn riêng, nằm trên khu đất rộng có nhiều cây xanh tốt. Trước đây đình có hai nếp Tiền tế và Đại đình, nay chỉ còn toà Đại đình có bố cục kiểu chữ “nhất”. Đại đình gồm 5 gian dĩ có đao cong 4 mái lợp ngói ri toàn bộ. Đình có 48 cột gỗ tứ thiết, cột dài lớn, khung vì đồ sộ, thiết kế khung vì kiểu thượng thả kèo, trung hạ là kẻ trường. Các trang trí trên kiến trúc đại đình mang dấu ấn của nghệ thuật cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn, bộ khung vì chắc khoẻ và bền vững. Hậu cung của đình được nâng chuỗi duộc ở ngay gian giữa của Đại đình và quây thành khám thờ. Mái làm chồng diêm hai tầng. Có đạo cuốn các góc thanh nhã. Phía trước chuôi duộc có cửa cấm cung làm cánh, nâng cao thành bậc thờ riêng, cao hơn hẳn nền đình.

V. NHỮNG DI VẬT CÓ TRONG DI TÍCH.

Đình Thạch Lỗi nằm ở vùng chiến sự ác liệt trong kháng chiến nên đã hư hỏng, mất một số cổ vật có giá trị như thần tích, bia đá... Ngôi đình hiện còn một kiến trúc đồ sộ, vững chắc, và niên đại của đình ít nhất được khởi dựng từ cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Di tích có kiến trúc đồ sộ, đẹp nhất hiện còn gìn giữ được trong vùng. Hiện nay, đình còn bảo lưu được một số đồ tế khí như long ngai bài vị thế kỷ XIX - XX; bài vị thờ thánh Tam Giang và bộ kiệu bát cống nghệ thuật thế kỷ XIX – XX, cụ thể:

  - Đồ gỗ:

+ Ba ngai thờ bài vị có kích thước 87x54x40cm được sơn son thếp vàng thuộc thế kỷ XX, được chạm khá cầu kỳ, tỷ mỷ các hình rồng, phượng, mặt hổ phù, hoa dây… Một bộ kiệu bát cống dung để rước trong ngày hội, chạm rồng sơn son thếp vàng, mang đậm nét nghệ thuật thế kỷ XIX. Kiệu có đòn dọc, đòn ngang trang trí đầu đuôi rồng, phần giữa đòn là chạm nổi hệ tứ linh, tứ quý.

  + Một án gian thờ nghệ thuật thế kỷ XX, sơn son thếp vàng, trang trí rồng chầu. Ba mâm ỉ thờ dung để đặt đài nước nghệ thuật thế kỷ XIX được sơn son thếp vàng, chạm rồng.

  + Hoành phi hai bức bằng sơn son thếp vàng. Câu đối 4 đôi gỗ sơn son thếp vàng nghệ thuật thế kỷ XIX-XX.

+ Bốn ván gỗ chạm rồng trang trí nghệ thuật thế kỷ XVII-XIX.

+ Một bộ bát tửu, biển lệnh gỗ sơn son thếp vàng nghệ thuật thế kỷ XX.

+ Một đôi hạc gỗ sơn son thếp vàng nghệ thuật thế kỷ XX.

- Đồ giấy: Một cuốn thần tích sao lại.

- Đồ đồng: Một bộ tam sự nghệ thuật thế kỷ XX; một số ngữ sự nghệ thuật thế kỷ XX.

Ngoài ra còn có một số đồ thờ tự khác như: Bát hương, cây đèn, cây nến, lục bình sứ, y môn, tàn, tán, lọng…

VII. GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHOA HỌC NGHỆ THUẬT.

 Đình Thạch Lỗi là một di tích cổ có giá trị văn hóa lịch sử cao trong kho tang di sản văn hóa của dân tộc. Ý nghĩa to lớn của di tích được tỏa ra từ nội dung lịch sử và bản than khối kiến trúc hiện còn. Di tích được quy hoạch trên một khu đất rộng ở trung tâm thôn làng. Đây cũng là trung tâm sinh hoạt văn hóa, hội họp của một làng quê.

- Về giá trị lịch sử:

Đây là một trong số những ngôi đình được xây dựng sớm ở nước ta, trải qua nhiều biến động thăng trầm của lịch sử dân tộc, sự trường tồn của ngôi đình qua nhiều triều đại đã chứng tỏ ngôi đình là sản phẩm, là báu vật mà lịch sử và tiền nhân để lại cho ngày hôm nay.

Đình Thạch Lỗi thờ Thành hoàng là Đức Thánh Tam Giang, vị phúc thẩn có công với nước với dân, bảo hộ phù trì giúp cho cuộc sống dân làng, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Việc thờ tự các vị thần là truyền thống đáng quý trọng của dân tộc ta, các vị thần được tôn vinh là những tấm gương sáng cho mọi thế hệ người dân noi theo để tự hào và đoàn kết chung xây cuộc sống.

Ngoài ra đình Thạch Lỗi cũng thờ Thánh Gióng – Phù Đồng Thiên Vương, một trong 4 vị anh hùng, tứ bất tử trong tâm thức của người Việt Nam.

- Về giá trị kiến trúc nghệ thuật:

Đình Thạch Lỗi là một trong những ngôi đình cổ có kiến trúc to đẹp của huyện Sóc Sơn và thành phố Hà Nội còn lưu giữ đến ngày nay. Trải qua thời gian chiến tranh và thiên nhiên tàn phá, đến nay di tích vẫn bảo lưu được nét đẹp truyền thống, giữ dáng vẻ cổ kính, tôn nghiêm của một ngôi đình cổ. Đình có quy mô lớn, nằm trên khu đất cao, thoáng ở giữa làng càng tôn thêm vị trí của vị thành hoàng làng.

Trang trí kiến trúc của đình Thạch Lỗi thực sự là tác phẩm có giá trị nghệ thuật độc đáo, có tính thẩm mỹ cao như các mảng chạm rồng, văn mây, văn thực vật, tứ quý…phản ánh ước mong của những cư dân nông nghiệp, mong cuộc sống bình yên, mưa thuận gió hòa, qua bàn tay khéo léo của nghệ thuật tạo tác, sự đa dạng phong phú của hình thức thể hiện đã trở thành những tác phẩm điêu khắc tiêu biểu cho nghệ thuật thế kỷ XVIII – XIX.

- Về giá trị văn hóa:

Ngoài những giá trị về kiến trúc nghệ thuật, đình Thạch Lỗi còn bảo lưu một số hiện vật như: Ngai thờ, bài vị, kiệu rước, hoành phi, câu đối…là những hiện vật quý của di tích. Nó là minh chứng giúp cho các nhà nghiên cứu, các nhà dân tộc học tìm hiểu về sự phát triển cư dân làng xã, về sự phân hóa giai cấp trong từng thời kỳ lịch sử của cư dân làng xã nơi đây. Bên cạnh đó các di vật góp phần quan trọng làm giàu them kho tang di sản văn hóa nước nhà.

Ngôi đình từ xa xưa là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, với những lễ hội truyền thống đặc sắc, những hoạt động văn hóa tinh thần độc đáo, nơi duy trì củng cố mối quan hệ cộng đồng, nuôi dưỡng những quan niêm về lối sống tốt đẹp, góp phần giáo dục các thế hệ kế tiếp, giáo dục long tự hào, tinh thần yêu nước cho nhân dân địa phương, cũng như giáo dục đạo lý khuôn phép và cung cách ứng xử trong cộng đồng cư dân nơi đây.

Đình Thạch Lỗi trong bối cảnh ven song Cà Lồ, với những đồi núi rừng cây sinh thái có giá trí, là điểm đến hấp dẫn trong tuyến thăm quan du lịch văn hóa ở Sóc Sơn và Hà Nội.

Qua các nội dung giá trị trên cho thấy, đình Thạch Lỗi là một di sản văn hóa có giá trị cần được bảo tồn và phát huy tác dụng. Ngày 28/9/2006, Đình Thạch Lỗi đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia tại Quyết định số 77/2006/QĐ-BVHTT./.

 

Huyện Sóc Sơn tổ chức chương trình nghệ thuật chào mừng 45 năm Thành Lập Huyện Sóc Sơn, Huyện đón nhận nông thôn mới, huân chương lao động hạng 3!
Ngày đăng 14/07/2022 | 04:04  | Lượt truy cập: 3502


    *Huyện ủy - HĐND - UBND - UB MTTQ VN huyện Sóc Sơn trân trọng kính mời toàn thể nhân dân trên địa bàn huyện đến dự chương trình nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 45 năm thành lập huyện Sóc Sơn và đón nhận huyện đạt chuẩn Nông thôn mới, Huân chương Lao động hạng Ba !
          Thời gian: :1️⃣9️⃣giờ4️⃣5️⃣phút

            Ngày 1️⃣5️⃣ tháng7️⃣ năm 2️⃣0️⃣2️⃣2️⃣ ( Tối thứ 6).

         Địa điểm: Sân vận động huyện Sóc Sơn, thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn.

            - Đến với chương trình nghệ thuật đặc biệt này, khán giả sẽ được trở về với MẢNH ĐẤT ĐỊA LINH VÀ ANH HÙNG; được KẾ THỪA VÀ TIẾP NỐI những mạch nguồn cảm xúc; được hòa mình với KHÁT VỌNG VƯƠN LÊN của một huyện anh hùng tròn tuổi 45.
             -Chương trình mở cửa miễn phí phục vụ bà con nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập huyện Sóc Sơn, đón Bằng công nhận huyện nông thôn mới, Huân chương Lao động hạng Ba.
                                       Trân trọng kính mời Nhân dân tới thưởng thức!

Bản đồ hành chính